Nói nhỏ :

Mỗi người sinh ra trên cõi đời này có một cơ địa , một tinh cách riêng . Sự đấu tranh sinh tồn và các yếu tố may mắn hình thành nên số phận . Nhưng cuộc đời dù lê thê cỡ nào cũng chỉ là hữu hạn và ngắn ngủi so với thế giới tự nhiên.Ta bước vào nghiệp dạy Toán như một lẽ thường vì ta đam mê sự suy luận sáng tạo , tính kiên trì ; sự chính xác và được tự do cô đơn.

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2018



Bà THÁI THỊ LIÊN – Một người Việt cao quý
Bà Thái Thị Liên và con trai -nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn
Cách đây ít lâu người Hà Nội tiễn đưa bà Hoàng Thị Minh Hồ về nơi an nghỉ cuối cùng. Bà vừa là chứng nhân, vừa là người có đóng góp to lớn vào những biến cố diễn ra trong hơn một thế kỷ vừa qua ở Việt Nam.
Tôi luôn nghĩ rằng bà Hoàng Thị Minh Hồ là một người Viêt cao quí đich thực, một người mang cốt cách cao quí của người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam ngày xưa nói chung.
Hôm nay tôi xin phép nói chuyện về một người phụ nữ Hà Nội cao quí khác, một người phụ nữ có một số phận đầy cay đắng và vinh quang hiếm có.
Bà sinh năm 1918 ở Sài Gòn trong một gia đình trí thức thượng lưu  quốc tịch Pháp nổi tiếng ở Nam Bộ. Cha bà là một trong những kỹ sư Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp ở Pháp, một người ưa chuộng văn hóa Châu Âu. Chị bà là một trong những nghệ sỹ piano, nhà soạn nhạc đầu tiên ở Sài Gòn và trên toàn đất nước Việt Nam.
Cả 7 anh chị em bà đều được gia đình cho học nhạc từ khi còn rất nhỏ. Bản thân bà được học piano với các bà soeur từ năm 4 tuổi. Từ năm 11 tuổi, song song với việc học ở Trường Trung học Marie Curie, bà đã học thêm piano chuyên nghiệp với bà Armande Caron. Và năm 16 tuổi, bà đã lần đầu tiên biểu diễn ra mắt công chúng tại tòa thị chính Sài Gòn.
Vào những năm 1944-1945, nhà bà ở số 1 Phan Kế Bính Sài Gòn đã từng là nơi tụ họp của giới thanh niên trí thức Nam Bộ, những người không thân và không làm việc cho Pháp.  Trong số này, có các ông Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Thủ, Kha Vạng Cân, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Ngô Tấn Nhơn, Trần Công Tường, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ … và nhiều người khác.
Tất cả đều là bạn bè và đồng chí của người anh kế trên bà, luật sư Thái Văn Lung một cựu trung úy quân đội Pháp tham gia Thế chiến Thứ hai trong hàng ngũ quân đội Pháp. Một trong những thủ lĩnh Thanh niên Tiền Phong Nam Bộ lúc đó.
Tôi cũng xin phép nói thêm, Thanh niên Tiền Phong là một tổ chức xã hội, hoạt động kiểu Hướng Đạo Sinh do người Nhật đề nghị bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, một nhân sỹ Sài Gòn nổi tiếng có vợ người Pháp đứng ra thành lập. Được sự gợi ý của ông Trần Văn Giàu Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ, ông Phạm Ngọc Thạch (một đảng viên cộng sản bí mật) đã nhận lời và nhanh chóng xây dựng Thanh niên Tiền Phong thành một tổ chức quần chúng rộng rãi ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ (cho đến cuối tháng 08.1945, riêng ở Sài Gòn đã có hơn 200.000 Thanh niên Tiền Phong). Luật sư Thái Văn Lung chính là người phụ trách tổ chức huấn luyện quân sự cho Thanh niên Tiền Phong.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp 03.1945, trong khi nhân vật chính của tôi theo gia đình sang Pháp và vào học ở Conservatoire Paris, ở Việt Nam xảy ra những biến cố “long trời lở đất”. Cuối tháng 08.1945, dưới sự lãnh đạo ông Trần Văn Giàu Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ và các đồng chí của ông, Việt Minh mà nòng cốt là lực lượng Thanh niên Tiền Phong đã giành được chính quyền Sài Gòn về tay mình một cách nhanh chóng thuận lợi
Ngày 23.09.1945, người Pháp dưới sự yểm trợ của quân đội Anh đã gây hấn với chính quyền Việt Minh, để quay lại tái chiếm Sài Gòn. Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ dưới lãnh đạo của ông Trần Văn Giàu đã tổ chức nhân dân Nam Bộ chống trả quyết liệt. Hàng loạt tổ chức quân sự địa phương ra đời, mà thành phần chủ yếu là Thanh niên Tiền Phong.
Tháng 07.1946, ông Thái Văn Lung đại biểu Quốc Hội Việt Nam khóa 1, lúc đó là Chủ tịch Huyện Thủ Đức, Chỉ huy trưởng Bộ đội Thủ Đức đã bị thương, bị bắt trong một cuộc phục kích của quân đội Pháp. Sau đó, ông đã bị người Pháp tra tấn dã man đến chết vì không chịu khai báo và vì “phản bội” nước Pháp.
Cũng trong thời gian đó tại Paris, số phận đã đưa đẩy nhân vật chính của tôi gặp và kết hôn với ông Trần Ngọc Danh, trưởng Phái đoàn Đại diện của Chính phủ VNDCCH  tại Paris lúc đó. Ông Trần Ngọc Danh là đại biểu Quốc Hội Việt Nam khóa 1, từng tốt nghiệp Đại học Phương Đông Moskva, một nhà cách mạng chuyên nghiệp đã ngồi tù Côn Đảo đến tận 1945.
Sau này khi tôi hỏi bà tại sao một tiểu thư khuê các như bà lại “đổ” vì ông Trần Ngọc Danh, bà hồn nhiên cho biết “làm sao mà không đổ hả cháu, ổng nói rất hay, rất thuyết phục, ổng có khí chất đặc biệt của một người làm cách mạng”. Từ đó bà đã tạm gác việc học piano, mà toàn tâm toàn ý giúp đỡ Đoàn đại diện của Chính phủ VNDCCH ở Paris. Bà vừa làm thư ký, làm phiên dịch trong những cuộc họp quan trọng và làm cả lái xe riêng cho Phái đoàn.
Năm 1948, chiến tranh Việt-Pháp ngày càng leo thang, thái độ của chính quyền Pháp và các thành phần dân tộc chủ nghĩa Pháp đối với người Việt ở Pháp ngày càng cực đoan, bà đã theo ông Trần Ngọc Danh chuyển sang sống và làm việc ở Praha Tiệp Khắc. Tại đây, con gái của hai ông bà, Giám đốc Nhạc viện Quốc gia Hà Nội tương lai đã ra đời. Đồng thời, bà tiếp tục học piano. Năm 1951, bà đã tốt nghiệp loại ưu Nhạc viên Praha, trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp đại học âm nhạc.
Sau đó cuối năm 1951, bà đã lên đường về chiến khu Việt Bắc để đoàn tụ với ông Trần Ngọc Danh. Đúng vào thời kỳ cuộc chiến tranh Việt-Pháp bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Sau khi bay từ Praha về Bắc Kinh và đi xe lửa xuống phía Nam Trung Quốc, bà đã phải địu con gái 2 tuổi đi bộ hơn 100 cây số xuyên rừng về ATK Việt Bắc.
Bà về ATK Việt Bắc đúng vào lúc ông Danh đang ốm nặng về thể chất và rất căng thẳng về tinh thần sau các đợt gió Chỉnh Huấn từ Trung Quốc thổi sang. Bà đã phải vừa chăm con nhỏ, vừa làm vườn, nuôi gà lợn và cả nuôi dê lấy sữa bồi dưỡng cho ông. Nhờ sự chăm sóc kịp thời của bà ông Danh đã khỏe lên hơn nhiều. Khi đó bà cũng đã mang thai người con thứ hai.
Nhưng rồi tai họa vẫn ập đến. Do hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến khu, do thuốc men cực kỳ thiếu thốn và sức khỏe lại đã bị hao mòn từ những năm ở tù Côn Đảo, ông Danh đã không qua khỏi được khi bệnh tái phát. Ông đã ra đi trước khi người con trai, Viện Trưởng Viện Nghiên cứu thiết kế các trường đại học Bộ Đại học tương lai ra đời ít lâu.
Đến nay, mỗi khi nói chuyện với bà một người phụ nữ nhỏ bé thanh tú, tôi vẫn khó hiểu tại sao một người phụ nữ suốt đời chăn ấm nệm êm như bà có thể đứng dậy được sau khi chồng mất, một mình với hai con nhỏ ở Việt Bắc gian khó. Bà cho biết là ngoài bản năng mẫu tử, tình đồng chí kháng chiến và lòng tin mãnh liệt vào chiến thắng, thì trên hết là tình yêu âm nhạc đã giúp bà vượt qua tất cả.
Trong những năm học đại học ở Nga, các thầy cô thường kể cho chúng tôi những câu chuyện bi tráng về những người Nga vĩ đại. Ấn tượng nhất với họ và đọng lại lâu nhất trong ký ức của tôi là câu chuyện về những người phụ nữ quí tộc St. Peterburg, vợ của các nhà cách mạng Tháng Chạp. Những người đã nổi dậy chống Nga Hoàng năm 1825 và bị kết án đày biệt xứ Siberia.
Những người vợ và hôn thê của các nhà cách mạng Tháng Chạp đã theo chồng đi đày biệt xứ và chia xẻ mọi gian khổ với họ ở Siberia băng giá. Có lẽ tôi cũng không bao giờ thực sự hiểu thấu hành xử cao đẹp của họ và tin rằng chuyện như vậy có thật, nếu không may mắn được quen biết bà. Một phụ nữ thực sự kiên  cường, không đầu hàng nghịch cảnh.
Giai đoạn 3 năm ở ATK Việt Bắc cũng là khoảng thời gian duy nhất trong đời bà không được tiếp xúc với piano. Nhưng tình yêu âm nhạc đã đưa bà đến với Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương, nơi lần đầu tiên bà gặp thi sĩ nhạc sĩ Đặng Đình Hưng người lãnh đạo Đoàn lúc đó. Những năm này bà chuyên dạy ký xướng âm cho các Đội văn nghệ đến từ các địa phương và chỉ huy dàn hợp xướng của Đoàn.
Hạnh phúc chỉ thực sự quay lại với bà trong dịp cùng Đội Hợp xướng Hòa bình sang Trung Quốc thu đĩa, chuẩn bị cho Lễ tiếp quản Hà Nội tháng 10.1954. Ở Thượng Hải lần đầu tiên sau 3 năm, bà lại được chạm vào phím đàn piano. Hôm đó bà đã chơi đàn suốt đêm.
Sau khi về Hà Nội, bà đã dành toàn bộ tình yêu âm nhạc của mình cho nghành sư phạm âm nhạc Việt Nam. Năm 1955, bà đã cùng với các ông Tạ Phước, Lê Yên, Tô Vũ, Doãn Mẫn, Vũ Đức Tuân, Lều Thọ Hợp thành lập Trường Âm nhạc Việt Nam (tiền thân của Nhạc viện Quốc gia Hà Nội).
Họ đã phải bắt đầu mọi việc từ số không tuyệt đối: không nhạc cụ, không sách nhạc, không đội ngũ giảng viên. Vì là người duy nhất được đào tạo đại học âm nhạc bài bản, bà bắt tay ngay vào việc xây dựng Khoa piano của trường, trực tiếp đào tạo những giảng viên và lứa học sinh đầu tiên, soạn giáo trình và viết nhiều tiểu phẩm trên chất liệu dân ca. Bà là Chủ nhiệm Khoa piano đầu tiên và làm chủ nhiệm khoa lâu nhất đến khi về hưu 1978.
Tình yêu âm nhạc to lớn cũng đưa bà trở thành nghệ sỹ piano đầu tiên của Đoàn Ca múa Nhạc Nhân dân Trung ương (tiền thân của Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam).
Năm 1957, vượt qua mọi dư luận và thị phi, bà đã kết hôn với thi sĩ nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và họ trở thành một đôi đẹp nhất của giới nghệ sỹ Việt Nam lúc đó. Sau này khi đã có nhiều trải nghiệm cuộc sống và có quan hệ thân thuộc với gia đình bà, tôi mới thực sự thấu hiểu thêm một phẩm chất đặc biệt nữa ở bà. Đó là khả năng kỳ diệu hiếm có của bà, luôn giữ được cho mình là một người tự do trong mọi hoàn cảnh.
Thế nhưng số phận đối với bà thật là cay nghiệt.  Năm 1958, trong lúc bà mang thai người con thứ ba, nghệ sỹ piano xuất chúng nhất lịch sử Việt Nam, niềm tự hào âm nhạc tương lai của người Việt, bất hạnh to lớn một lần nữa lại ập đến gia đình bà.
Ông Đặng Đình Hưng do liên quan đến vụ nhóm Nhân văn Giai phẩm đã bị gạt ra khỏi công việc, bị đẩy ra ngoài đời sống xã hội, bị “rút phép thông công”. Từ đó, ông Hưng chỉ còn là cái bóng của chính mình. Bà phải gánh vác toàn bộ công việc gia đình và cả giang sơn nhà chồng.
Trong khoảng gần 10 năm sau đó, gia đình bà rơi vào một hoàn cảnh rất cực khổ. Đó cũng là thời gian tôi bắt đầu được biết đến gia đình bà. Bà thường phải dậy từ rất sớm và liên tục làm nhiều công việc: dậy học và công việc ở khoa piano trường nhạc, luyện tập biểu diễn, dạy thêm piano kiếm tiền nuôi gia đình và tất nhiên là chợ búa cơm nước.
Cả gia đình 6 người (kể cả con riêng của ông Hưng là ông Đặng Hồng Quang) gồm đến 4 người chơi piano phải ở trong hai phòng nhỏ trên gác hai và ba phố Kỳ Đồng (nay là phố ẩm thực Tống Duy Tân), cạnh đường xe lửa Cửa Nam Hà Nội.
Ấn tượng lớn nhất về bà thời kỳ đó đối với tôi, là sự kính trọng và tình yêu to lớn của học trò dành cho bà. Một người được họ gọi bằng “Má”. Vì bà dù là một người thầy rất nghiêm khắc, khó tính, nhưng lại rất thẳng thắn, công bằng, luôn quan tâm và nghĩ cho học sinh. Đồng thời, trong cuộc sống, bà luôn lạc quan, chân thành, giản dị và dễ gần.
Một ấn tượng đặc biệt nữa đọng lại, đó là thái độ của bà đối với những học trò học piano tư. Môn piano từ xưa vốn luôn được coi là một sở thích quí phái. Vì vậy, rất nhiều người trong giới tinh hoa và quan chức Hà Nội muốn gửi gắm các quí cô cho bà. Tuy nhiên, bà đã từ chối nhiều trường hợp, nếu thấy học trò không có năng khiếu hoặc không thiết tha.
Với những trường hợp này, bà thường nói thẳng với phụ huynh “Ông bà đừng cho cháu tiếp tục học đàn. Cháu không có năng khiếu. Để cháu học tiếp chỉ phí tiền của ông bà, phí thời gian của cháu và công sức của tôi”. Sau này nghĩ lại, tôi thấy bà thực sự là một người thầy, với đạo đức nghề nghiệp mẫu mực.
Ngoài ra, tuy là một người bộc trực thẳng thắn và có nền tảng văn hóa cao tinh tế, nhưng bà luôn chân thành, bao dung và đặc biệt là hoàn toàn xa lại với thói nhỏ nhen đố kỵ. Thêm nữa là tình yêu nghề, yêu âm nhạc và yêu học trò vô bờ của bà đã chinh phục tất cả. Có lẽ chính nhờ vậy, mà bà được sự kính trọng và quí mến sâu sắc của đồng nghiệp nói riêng, giới tinh hoa và bình dân Hà Nội, cũng như của mọi tầng lớp người Việt nói chung.
Sau này khi ở nước ngoài, bản thân tôi cũng từng nhiều lần ngạc nhiên một cách thú vị, khi chứng kiến tình cảm quí mến như vậy của rất nhiều người Nga, người Ba Lan và các dân tộc khác dành cho bà.
Gần đây, khi nhìn lại những người đủ mọi thành phần và dân tộc mà bản thân đã tiếp xúc trong đời, tôi mới chợt ngộ ra: phải chăng nhờ có một nền tảng giáo dục tốt cộng với một khí chất cao quí tự nhiên, mà bà dễ dàng gây được thiện cảm và sự tôn trọng của bất cứ ai tiếp xúc với mình như vậy. Về phương diện này, có lẽ bà có phần giống với Nam Phương Hoàng Hậu khi ra làm dâu Hoàng tộc ở Huế và sang Pháp sống những năm cuối đời.
Trong thời gian chiến tranh phá hoại Mỹ, cả gia đình bà theo Trường Âm nhạc Việt Nam đi sơ tán về Bắc Giang, chia xẻ mọi gian khổ và hiểm nguy của cuộc chiến, như tất cả mọi gia đình miền Bắc Việt Nam lúc đó. Con trai út của bà, niềm tự hào âm nhạc Việt Nam tương lai, ngoài chuyện tiếp tục học piano, ông còn là một “chuyên gia” nuôi gà và một “thợ” mò cua bắt ốc. Đồng thời là một học sinh giỏi, từng dự kỳ thi toán học sinh giỏi tỉnh Bắc Giang.
Hiện nay, khi nhắc đến sự nghiệp biểu diễn và giảng dậy âm nhạc quốc tế thành công của ông, người ta thường đề cập đến một vài yếu tố: tài năng thiên bẩm di truyền từ cha, may mắn được phát hiện sớm và được mẹ vun đắp, khi sang Liên Xô học đại học gặp được thầy giỏi, sự say mê và chuyên tâm cá nhân đặc biệt. Tất cả đều đúng nhưng theo tôi có lẽ chưa đủ.
Việc ông thành công trong nghệ thuật âm nhạc cổ điển đỉnh cao, một lĩnh vực nổi tiếng bảo thủ, nổi tiếng là tinh tế và bắc bậc kiêu kỳ. Một lĩnh vực rất khó tiếp nhận những người khác đẳng cấp văn hóa, phải chăng còn nhờ một yếu tố khác nữa.
Như chính ông cho biết, giải nhất ông đoạt được trong cuộc thi Âm nhạc Quốc tế Chopin năm 1980 chỉ là một tấm bằng đặc biệt cao cấp, một tấm vé để vào cửa của giới Âm nhạc Cổ điển quốc tế đỉnh cao. Có tiếp tục trụ được hay không là vấn đề khác.
Chính vì vậy, tôi nghĩ có lẽ việc ông Đặng Thái Sơn thành công giới Âm nhạc Cổ điển quốc tế đỉnh cao, còn nhờ một cơ duyên khác nữa. Đó là việc ông đã phần nào đã thừa kế được khí chất cao qui tự nhiên từ bà Thái Thị Liên.
Bà không chỉ là người thầy lớn nhất của ông, người đã nuôi dưỡng tài năng của ông từ nhỏ. Bà Thái Thị Liên còn một cố vấn nghiêm khắc và thông thái, đồng hành rất nhiều năm, trong sự nghiệp biểu diễn quốc tế của ông Đặng Thái Sơn sau 1980.
Đối với Việt Nam, bà Thái Thị Liên là một công thần của nền âm nhạc cổ diển Việt Nam, một người thầy lớn của nhiều thế hệ nghệ sỹ và nhà sư phạm piano Việt Nam. Những người thành đạt cả ở Việt Nam lẫn trên thế giới. Trong số này, đặc biệt có bà Trần Bạch Thu Hà và ông Đặng Thái Sơn những người con của bà.
Đối với tôi, bà Thái Thị Liên cũng như bà Hoàng Thị Minh Hồ đều là những người Việt cao quí. Tôi tuyệt đối tin rằng, khí chất cao quí của những người như các bà góp phần to lớn vào việc nâng cao tầm vóc văn hóa của cả dân tộc Việt Nam. Một điều, có lẽ cũng tương tự như việc tiếp thu và truyền bá âm nhạc cổ điến Châu Âu tại Việt Nam..
Dù đã biết bà Thái Thị Liên rất nhiều năm, nhưng sự ngưỡng của tôi đối với bà chỉ đến một cách từ từ, sau nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, sau khi từ xa nhìn lại. Trong con mắt tôi, bà Thái Thị Liên là người đẹp nhất mà tôi từng gặp trong đời. Một người đẹp từ ý nghĩ bên trong, đến hình thức và mọi cử chỉ hành vi bên ngoài. Xin chúc Bà mạnh khỏe bà và hạnh phúc.
Trần Công Tâm
PS. Tôi viết những dòng này để bày tỏ sự kính trọng và ngưỡng mộ sâu sắc đối với bà Thái Thị Liên, nhân dịp bà bước vào tuổi 100 và sự kiện buổi biểu diễn piano “Trăm mùa thu vàng” vinh danh bà, được tổ chức tại Phòng Hòa nhạc Lớn Nhạc viện Quốc gia Hà Nội (77 Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội), ngày 23.11.2017.
Đó là một sự kiện văn hóa tráng lệ và thành công hiếm có trong đời sống văn hóa Hà Nội. Đạo diễn của buổi biểu diễn này là KTS Trần Thanh Bình con trai bà Thái Thị Liên. Ông cũng chính là tác giả, người đã thiết kế Phòng Hòa nhạc Lớn 1000 chỗ ngồi, nơi diễn ra sự kiện này. Một phòng hòa nhạc chuyên nghiệp bậc nhất Hà Nội.

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

VÀI NÉT VỀ GIÁO SƯ PHAN ĐÌNH DIỆU


                                      VÀI NÉT VỀ GIÁO SƯ PHAN ĐÌNH DIỆU

GS Phan Đình Diệu sinh năm 1936, lớn lên tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1954, ông tốt nghiệp trung học tại trường kháng chiến Phan Đình Phùng - Hà Tĩnh, ra Hà Nội thi vào trường Đại học Khoa học. Hết năm thứ nhất, ông chọn trường Đại học Sư phạm Khoa học. Cũng chính tại đây, Phan Đình Diệu đã tìm thấy sự say mê đối với ngành toán học. Năm 1957, ông tốt nghiệp thủ khoa và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy.
Năm 1962, ông được cử đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học, trường Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva mang tên Lomonosov.
Mùa hè năm 1965, sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ, ông được đề nghị ở lại làm tiếp luận án tiến sĩ khoa học và đến năm 1967, ông về nước với học vị Tiến sĩ Khoa học.




Hai vợ chồng GS Phan Đình Diệu (vợ là bà Văn Thị Xuân Hương, em gái của thầy Văn Như Cương)

Ông được cử đến công tác tại Uỷ ban Khoa học Nhà nước, bộ phận máy tính, cùng các bạn đồng nghiệp khác xây dựng phòng Toán học tính toán vừa được thành lập.
Năm 1975, trong một chuyến thực tập tại Pháp, ông đã được tiếp xúc với nhiều thành tựu hiện đại của ngành tin học trên thế giới. Từ đó, ông đã say mê tìm hiểu hai hướng phát triển mà ông cho là có triển vọng nhất và có thể ứng dụng và phát triển ở Việt Nam là vi tin học (trên cơ sở kỹ thuật vi xử lý và máy vi tính) và viễn tin học (trên cơ sở công nghệ viễn thông và mạng máy tính).
Đầu năm 1977, Viện Khoa học tính toán và điều khiển được chính thức thành lập, và ông được phân công làm viện trưởng. Là người dự thảo kế hoạch và cũng là người quản lý, từ năm 1977 đến 1985, ông đã đưa viện vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại của buổi đầu hoạt động, xây dựng được một số hướng nghiên cứu chính về tin học.




                  GS Phan Đình Diệu với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và một số nhà khoa học lớn

Sau đó, ông làm Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), Phó trưởng thường trực Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (1993-1997), Thành viên Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam (từ năm 1992).
Ông còn là người sáng lập và Chủ tịch đầu tiên Hội Tin học Việt Nam.




                          Từ trái sang: GS Tạ Quang Bửu, GS Lê Văn Thiêm và GS Phan Đình Diệu.


 


Viện trưởng Trần Đại Nghĩa cùng các Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam: Từ trái sang : Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn Văn Hiệu, Trần Đại Nghĩa ; Phan Đình Diệu (ảnh chụp nhân dịp nhân dịp kỷ niệm 80 năm sinh nhật GS. Trần Đại Nghĩa-1993)


Ông cũng nguyên là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về khoa học giáo dục, đại biểu Quốc hội khoá VI khi hơn 40 tuổi.
GS Phan Đình Diệu là một người thầy tâm huyết với giáo dục, là người có công lao to lớn trong việc xây dựng và phát triển ngành Tin học Việt Nam.
Gia đình GS Phan Đình Diệu và bà Văn Thu Hương có 3 người con là Phan Dương Hiệu (Dương Hiệu là cách nói lái của tên hai vợ chồng Diệu Hương), Phan Thị Quỳnh Dương và Phan Thị Hà Dương, trong đó GS Phan Dương Hiệu, PGS Phan Thị Hà Dương, là những nhà toán học sớm đạt được nhiều thành tựu từ khi còn trẻ.




                             Gia đình Hạnh phúc và Thành đạt của GS Phan Đình Diệu
GS Phan Đình Diệu trả lời phỏng vấn Báo Tuổi trẻ về dạy và học (năm 2009)

                                 Hai vợ chồng GS Phan Đình Diệu năm 2009. Ảnh: báo Tuổi trẻ

*TT :  Thưa giáo sư, hơn nửa thế kỷ dạy đại học, ông có nhận xét gì về các bạn trẻ sinh viên?
GS Phan Đình Diệu: Có nhiều em giỏi, tư chất thông minh, làm nghiên cứu được.
* TT : Còn điểm yếu của họ?
GS Phan Đình Diệu: Tính chủ động, độc lập yếu. Tự mình tìm tòi, tự suy nghĩ, tìm kiếm ý tưởng còn yếu. Chỉ mới làm theo phận sự thầy giáo giao, còn tự suy nghĩ tìm vấn đề mới thì yếu. Rất dễ hiểu vì nếp dạy của mình thế.
* TT : Thưa, bây giờ ai cũng nói nhiều về điều đó nhưng không biết sửa như thế nào?
GS Phan Đình Diệu: Đúng là ta nói nhiều: phải dạy học trò tư duy sáng tạo. Nhưng thế nào là tư duy sáng tạo thì chưa bao giờ có sự trao đổi giữa thầy và trò để truyền thụ kinh nghiệm và những tố chất ấy cho học trò nên căn bản vẫn là tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Khả năng tiếp thu tốt nhưng từ tiếp thu tốt tới sáng tạo là một quá trình, đòi hỏi phải được rèn luyện. Giáo dục ta nói nhiều về yêu cầu sáng tạo, độc lập tư duy nhưng chương trình học gần như chưa lồng ghép những năng lực đó cho học sinh. Đó là ở những môn khoa học. Còn khoa học xã hội lại yếu hơn nữa. Điều này cần có trong nội dung cải cách giáo dục, đổi mới giáo dục trong thời gian tới.
*TT :  Cụ thể như thế nào, thưa giáo sư?
GS Phan Đình Diệu: Năng lực sáng tạo, tư duy sáng tạo, tư duy phê phán... tất cả đều có bài bản, lý luận của nó. Trước hết ông thầy phải được học. Phải chú ý bồi dưỡng giáo viên năng lực ấy trước tiên. Nhiều nước trên thế giới có giáo trình dạy tư duy phê phán, đổi mới sáng tạo cho con người, tư duy độc lập, tư duy sáng tạo... Thầy mình không được học thế bao giờ, mà cũng không có điều kiện tự học những thứ đó. Muốn đại trà phải học kinh nghiệm các nước tiên tiến đào tạo từ giáo viên. Giáo viên sẽ chủ động thực hiện được.
* TT : Giáo sư có lời khuyên nào với người trẻ tuổi có khát vọng trở nên giỏi giang và tài năng?
GS Phan Đình Diệu: Tôi không có gì ở bản thân để khuyên cả.
*TT :  Nhưng là một người thầy, giáo sư có thể nói với học trò của mình chứ?
GS Phan Đình Diệu: Theo tôi nghĩ, tự mỗi người qua kinh nghiệm của mình tạo ra cách làm cho mình có năng lực nào đấy. Thí dụ, có thể khuyên gì với người đang khát khao tìm tòi kiến thức?
Không bao giờ xem cái đã học là đủ rồi. Luôn nghĩ rằng bên cạnh cái biết rồi còn những điều chưa biết, chưa được học. Ngay trong học khoa học, tôi đã có chút máu "nổi loạn" rồi. Học toán đại học nhưng khi học kiến thức tôi không nghĩ đó là chân lý duy nhất, chưa hẳn luôn luôn đúng. Chắc có khoa học, lý thuyết khác điều mình đã học, thậm chí ngược lại. Do đó phải tìm hiểu điều đó có không, nó ở đâu, tìm nó băng cách nào.
* TT : Xin giáo sư cho một ví dụ?
GS Phan Đình Diệu: Thí dụ trong toán học, một môn khoa học ai cũng nghĩ tất nhiên 1+1=2, là chân lý. Nhưng có phải vậy không. Hồi mới tốt nghiệp đại học tôi đã hoài nghi chuyện ấy. Cũng như có nhất thiết không phải không là có hay không. Tôi hoài nghi. Có chân lý nào khác không. Hay là có những chân lý khác nhau. Tôi không tin cái gì tuyệt đối cả. Điều này nó lẳng nhẳng theo tôi hết địa hạt này đến địa hạt khác, hết lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
*TT : Hiện giáo sư đang tìm tòi nghiên cứu vấn đề gì?
GS Phan Đình Diệu: Tôi đang nghiên cứu về cái phức tạp, khoa học về cái phức tạp. Nhiều cái hay tôi học được ở người ta thôi. Cái phức tạp không thể nhận diện được hoàn toàn, không rõ ràng, không chắc chắn, không mô tả được đầy đủ. Con người không bao giờ bất lực trước khó khăn gì, nhưng đừng ảo tưởng là hiểu đầy đủ. Cái phức tạp cũng đang là đối tượng nghiên cứu của khoa học thế giới hiện nay.
* TT : Những ý tưởng, suy nghĩ mới này có thể lồng vào để hiểu các vấn đề đơn giản hơn trong giáo dục, học hành như thế nào?
GS Phan Đình Diệu: Tôi không thuộc những người quá bi quan về giáo dục, nhưng cũng không thuộc loại xem mọi sự tốt cả rồi. Giáo dục là cuộc đời. Mà cuộc đời vốn phức tạp lắm. Dạy người ta sống trong cuộc đời, nhiều yêu cầu, nhiều mẫu hình. Không theo mẫu. Đừng bắt. Họ phải theo những gì họ được thuyết phục. Tự mình đánh giá, xác định. Đó là một trong những cách để trưởng thành.

* TT : Xin cảm ơn giáo sư!
Nguyễn Thị Ngọc Hải thực hiện    
  
GS PHAN DƯƠNG HIỆU NÓI VỀ CHA MÌNH-GSPHAN ĐÌNH DIỆU



GS Phan Dương Hiệu lấy bằng Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học về Mật mã tại trường ĐH hàng đầu nước Pháp Ecole Normale Supérieure (ENS). Từ năm 36 tuổi, anh là giáo sư tại Viện nghiên cứu XLIM, ĐH Limoges, Pháp, thành viên liên kết của Nhóm Mật mã tại ĐH ENS. Nghiên cứu của anh tập trung vào việc sử dụng các phương pháp toán học trong việc thiết kế các chương trình mã hóa, được anh công bố tại các hội nghị và tạp chí đầu ngành... Là thành viên của Ủy ban điều hành hội mật mã châu Á từ năm 2013, đồng chủ tịch hội nghị Asiacrypt 2016 tại Hà Nội cùng GS Ngô Bảo Châu. Đồng thời là giám đốc chương trình Master 2 Mathematics - Cryptis - chương trình Thạc sĩ chuyên về mật mã đầu tiên ở Pháp, được lập ra từ 30 năm trước, đã đưa nhiều sinh viên từ Việt Nam sang đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ .

“Đối với chúng con, niềm say mê của bố với khoa học, những trăn trở của bố với đất nước là lời dạy vô giá. Những lời phát biểu chân thành, dũng cảm; giản dị nhưng đầy mạnh mẽ - như mong ước của bố - sẽ như một giọt nước nhỏ bé hòa vào nhiều triệu giọt nước khác của dân tộc để tạo thành dòng thác đổi mới của đất nước. Giọt nước đó sẽ không tan đi khi bố chia xa...” - GS. Phan Dương Hiệu, con trai của cố GS. Phan Đình Diệu nói lời tiễn biệt bố mình.
Hơn 10 ngày sau khi đưa tiễn bố, cũng là người thầy lớn của mình, GS Phan Dương Hiệu đã dành cho chúng tôi một cuộc trò chuyện về những giá trị tri thức - tinh thần mà bố anh đã trao truyền, để lại...
“Một thời, chúng ta đã đi nhanh”
- Theo đánh giá của GS.TS Hà Huy Khoái, nguyên Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam thì trình độ tin học của Việt Nam những năm 1970 là cao hơn so với các nước Đông Nam Á khác, mà công đầu là nhờ GS Phan Đình Diệu - “người anh cả của nền tin học Việt Nam”. Tiếc rằng: “Chúng ta từng đi trước, nhưng vì nhiều nguyên nhân nên đã tụt lại phía sau”. Nguyên nhân, theo anh là do đâu?
- Muốn phát triển một lĩnh vực, điều quan trọng nhất vẫn là con người. Tôi được nghe các chú trong Viện Khoa học Tính toán & Điều khiển (nay là Viện CNTT Việt Nam, nơi GS Phan Đình Diệu là Viện trưởng đầu tiên - PV) kể lại, bố tôi có khả năng truyền cảm hứng và thu hút những người giỏi, trẻ về Viện. Nhờ thế, Viện đã có một đội quân chất lượng, đầy nhiệt huyết, say mê phát triển các ý tưởng mới. Đất nước bấy giờ cũng có những người tâm huyết lãnh đạo lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu như cụ Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa... Một khi mà người đi đầu, cộng với cơ chế cho phép việc thu hút và trọng dụng con người dựa trên thực lực tài năng và tâm huyết của họ, chúng ta đã đi nhanh. Ngược lại, khi có những rào cản cho việc trọng dụng và sử dụng tài năng, làm người giỏi phải ra đi, việc tụt hậu trong một thế giới đầy năng động, thay đổi từng giờ, là không tránh khỏi.
- Cũng theo lời GS Hà Huy Khoái: “Sự phát triển, những vấn đề mà xã hội đang phải đối mặt gần như là “minh họa” những gì GS Phan Đình Diệu từng nói từ mấy chục năm trước”. Điển hình là quốc nạn tham nhũng, mà bố anh từng nhận định: “Tham nhũng về thực chất là biến một cách phi pháp quyền lực thành hàng hóa”. Ngày hôm nay, khi chứng kiến những vấn nạn chạy chức chạy quyền, những đại án tham ô tham nhũng... theo anh, cần phải làm gì để giúp kiểm soát được “thị trường quyền lực” đó?
- Những vấn nạn chạy chức chạy quyền, những đại án tham ô tham nhũng ngày hôm nay chứng tỏ: Quyền là một thứ hàng hóa siêu lợi nhuận và người ta phải đút lót (một cách đầu tư) để chạy quyền, rồi khi có nó thì tận thu (tham nhũng).
Chúng ta vui mừng khi những đại án được đưa ra ánh sáng. Nhưng đó chỉ là bề nổi, để hướng tới triệt tận gốc vấn nạn này thì cần sự đổi mới mạnh mẽ để tăng sự minh bạch. Và để được như thế thì cần phải bỏ sự độc quyền, không thể có minh bạch nếu vừa làm vừa tự kiểm tra. Đối với tôi, độ minh bạch nhân với độ tham nhũng có “tích không đổi”. Không có xã hội nào tuyệt đối minh bạch, do vậy cũng không có xã hội nào không có tham nhũng. Nhưng tham nhũng sẽ trầm trọng hơn ở những nơi độ minh bạch thấp.
- “Bố nói với con, cuộc sống cần nhất sự trung thực. Tưởng chừng đơn giản nhưng trung thực bao gồm cả dũng cảm, trung thực với chính mình để có những chính kiến độc lập, và trung thực trong cuộc đời để dũng cảm nói lên những ý kiến tâm huyết...” - Chứng kiến và trải nghiệm nào đã khiến anh nghĩ rằng: Để sống trung thực chưa bao giờ là điều đơn giản?
- Không chỉ là những trải nghiệm riêng lẻ, tôi ngấm dần điều đó trong cuộc sống, qua những việc làm của bố tôi. Sống trung thực đòi hỏi tâm thế sẵn sàng chấp nhận những mất mát trong sự nghiệp và cuộc sống để có thể đối diện và lên tiếng thẳng thắn trước những vấn đề gai góc của xã hội.


- Anh từng viết: “Trong mật mã, việc xây và phá xảy ra liên tục và bổ trợ lẫn nhau để phát triển ngành”. Nhưng trong những ưu tư trăn trở của bố anh trước công cuộc đổi mới của đất nước, việc “người xây kẻ phá” lại bị coi là một rào cản kìm hãm sự phát triển. Đã bao giờ anh liên hệ thế?
- Xây và phá trong mật mã giống như sự phản biện trước một lý thuyết mới, khác với ý “người xây kẻ phá” trong cuộc sống. Phá ở đây là để cho thấy lý thuyết anh đưa ra không thuyết phục, vì thế anh cần phát triển nó tốt hơn. Trong mật mã, có những sơ đồ đứng vững trong hàng thập kỷ rồi bị phá bởi những công cụ tấn công mới. Nếu sự phá là công khai thì mọi người đều biết để tránh và xây sơ đồ mới tốt hơn. Còn nếu phá mà bí mật thì có thể gây nhiều tác hại, ta cứ dùng cái mà ta tưởng là tốt, nhưng thực chất lại đã bị phá và do đó không còn bảo mật được thông tin.
Cũng như vậy, nhiều lý thuyết trong cuộc sống cần được phản biện. Cuộc sống thay đổi, khó có lý thuyết nào là bất di bất dịch. Nếu sự phản biện là công khai, ta sẽ biết nên giữ cái nào, bỏ cái nào để phát triển. Còn nếu sự phản biện bị hạn chế thì rất dễ khiến ta đi theo những lý thuyết lỗi thời. 
“Tại sao lại áp lực khi có một ông bố giỏi?”
- Chiếc máy tính đầu tiên ở Việt Nam đã được tạo ra bởi bố anh và cộng sự, với sự trợ lực từ những người bạn Pháp. Đó có phải là lý do anh chọn nước Pháp làm nơi học tập và tu nghiệp?
- Không, lựa chọn của tôi không liên quan gì tới câu chuyện chiếc máy tính đầu tiên của Việt Nam cả. Nhưng đúng là bố tôi có nhiều kỷ niệm đẹp với nước Pháp, cũng như các cộng sự Pháp và tự một lúc nào đó tôi đã quý mến nước Pháp hơn là những nơi khác.
- Ở vào thế hệ anh, cũng như sau này, hầu hết dân IT đều coi nước Mỹ là thiên đường của CNTT. Vì sao anh vẫn gắn bó với nước Pháp?
- Trong ngành mật mã tôi theo đuổi thì Pháp là một trung tâm có vị thế khá vững ở hàng đầu trên thế giới. Môi trường sống, bề dày văn hóa và lịch sử châu Âu rất hấp dẫn, xã hội Pháp tôn trọng quyền con người. Một khi xa quê hương, tôi thấy Pháp là nơi thích hợp cho việc phát triển khoa học và cuộc sống.
- Bảo vệ tiến sĩ ở một trường tốt nhất châu Âu và hàng đầu thế giới, từng đảm nhiệm vị trí Chủ tịch hội nghị của một trong những hội nghị lớn nhất thế giới về mật mã... hành trang anh có được là gì, và món quà nào anh có thể tặng cho đất nước?
- Đó là những hoạt động bình thường của một người làm khoa học và nó gây hứng thú cho nhà khoa học. Tôi không bao giờ nghĩ sẽ đem lại món quà gì cho đất nước. Nếu có thể đóng góp gì đó có ích thì cũng là nhu cầu tự nhiên của một người con luôn muốn gần gũi quê hương, giúp bản thân có thêm động cơ để phấn đấu và phát triển.
- Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Đã bao giờ anh cảm thấy bị áp lực bởi quan niệm đó và cái bóng quá lớn của bố mình?
- Chưa bao giờ. Tại sao lại bị áp lực vì có một ông bố giỏi nhỉ? Tôi chỉ thấy may mắn và hạnh phúc vì bố tôi rất say mê công việc và yêu thương vợ con. Tôi nghĩ câu tục ngữ đó mang tính động viên hơn là gây áp lực. “Mọi lý thuyết đều có thể sai”, và câu tục ngữ đó cũng có thể sai.  
- Thay vì ẩn mình trong “tháp ngà khoa học”, bố anh dường như luôn chủ trương một thứ “khoa học phục vụ cuộc sống”.  Ở vị trí một nhà nghiên cứu, học thuật, anh nghĩ mình có thể sống một cuộc đời như bố để cùng hướng đến điều đó?
- Khái niệm “tháp ngà khoa học” vẫn còn nhiều tranh cãi. Những kết quả lý thuyết số rất đẹp đã từng được chiêm ngưỡng như những kết quả thuần tuý lý thuyết, nay lại là cơ sở cho những ứng dụng mật mã mà ta dùng hàng ngày, vậy nó là tháp ngà hay ứng dụng? Tháp ngà của quá khứ nhưng lại đem tới ứng dụng trong tương lai.
Từ những năm 1970, bố tôi đã nhìn nhận tương lai sẽ có cuộc cách mạng về xử lý thông tin với máy vi tính và ông say mê cổ vũ cho sự phát triển tin học. Lựa chọn của ông là sự kết hợp giữa đam mê khoa học và mong muốn phát triển những ứng dụng có ích cho đất nước. Để có những ứng dụng hữu ích, một nền tảng lý thuyết vững chắc là rất cần thiết nên ông đã xây dựng đồng thời những nhóm lý thuyết và ứng dụng trong Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển ngay từ bước khởi đầu.  
Tôi cũng rất muốn hướng những nghiên cứu của mình vừa mang tính lý thuyết sâu vừa có những ứng dụng có ý nghĩa.
- Đằng sau một sự nghiệp đồ sộ và một bầu nhiệt huyết cống hiến hết mình cho đất nước, những món quà nhỏ mà bố anh dành riêng cho vợ con là gì?
- Đó chính là sự hài hước, giản dị, bình thản trước mọi vấn đề. Đêm nào cũng làm việc khuya nhưng bố luôn tạo cảm giác ấm cúng cho gia đình. Bố tôi rất thích đọc sách, ngâm thơ và làm thơ, giọng bố rất truyền cảm. Tôi rất nhớ những đêm cả nhà quây quần nghe bố đọc thơ....
- Cách bố anh nuôi dạy ba người con thành đạt có giúp ích nhiều cho “cuốn giáo trình làm bố” của anh? 
- Bố tôi giản dị lắm, ông không nói gì to tát với tôi nhưng có cách nói truyền cảm hứng kỳ lạ. Mỗi khi đi công tác, bố thường mua cho chúng tôi những cuốn sách và đĩa nhạc hay, cả những món đồ chơi độc đáo vừa mới có trên thế giới như rubik, máy chiếu hình ảnh để giúp khơi gợi trí tò mò. Ông luôn để con cái phát triển tự nhiên theo sở thích. Tôi nghĩ rằng chúng tôi cũng sẽ làm như ông, để con cái chủ động trong việc học nhưng tôi cũng dành nhiều thời gian để chơi, trò chuyện cùng con, cùng tham gia các buổi hòa nhạc, triển lãm, tìm hiểu khoa học...
Mặc dù lúc này người ta hay nói đến khái niệm “công dân toàn cầu”, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn luôn nghĩ nếu một đứa trẻ có ý thức về quê hương nguồn cội thì sau này sẽ vững vàng trong cuộc sống. Vì thế, năm nào chúng tôi cũng đưa con về với ông bà hai tháng hè, đi học hè cùng các bạn Việt Nam.
Và hơn hết, sự chính trực và cách sống thanh thản lạc quan của bố đã cho chúng tôi một niềm tin vào Chân lý, vào cái Đẹp của cuộc sống. Đó cũng là điều chúng tôi mong muốn con mình có thể cảm nhận.
- Tên anh có phải do bố anh đặt? Anh nghĩ điều gì đã được gửi gắm vào cái tên đó?
- Đúng vậy, tên bố tôi là Diệu, tên mẹ tôi là Hương, nên bố mẹ tôi lái lại là Dương Hiệu (các chị tôi cũng tên là Dương), chắc ý mong tôi... đẹp trai như bố và thông minh như mẹ (cười)
- Xin cảm ơn những chia sẻ nhiệt thành của anh! 


                                  MỘT GÓC NHÌN KHÁC VỀ GIÁO SƯ PHAN ĐÌNH DIỆU

GS Phan Đình Diệu là một trong những người đầu tiên gầy dựng ngành khoa học tính toán của miền Bắc (1968). Chiếc máy vi tính đầu tiên, có thể coi là của Châu Á, ra đời năm 1980 [được thiết kế với chip Intel 8080A nên được đặt tên là VT80] là từ phòng thí nghiệm Viện Tin học của ông, bắt đầu từ những hợp tác trước đó với Viện Kỹ thuật Quân sự có sự giúp sức cả về chuyên môn và vật chất của ông André Trương Trọng Thi, người được coi là cha đẻ của máy tính cá nhân.
Theo tiến sỹ Vũ Duy Mẫn: “Năm 1981, sau khi lắp ráp thành công máy vi tính VT81 và cài đặt được ngôn ngữ lập trình Basic, Viện quyết định thử nghiệm đưa máy vi tính ứng dụng vào quản lý xí nghiệp cỡ nhỏ và vừa ở Xí nghiệp máy may Sinco”.
Nhưng, cho dù có nhiều nỗ lực, ngành công nghiệp sản xuất máy tính chỉ dừng lại ở đó. Tin học là một ngành không thể phát triển trong một quốc gia tự đóng cửa về chính trị và bị cô lập về thương mại với thế giới bên ngoài. Rất tiếc là khi tình hình trong nước bắt đầu cởi mở hơn thì GS Nguyễn Văn Hiệu được đưa lên thay giáo sư Trần Đại Nghĩa, làm Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam. Năm 1993, ông Hiệu loại GS Phan Đình Diệu khi ngành tin học Việt Nam cần một người lãnh đạo có tâm và có tầm nhất.
GS Hiệu năm ấy 45 tuổi. Ông có mọi ưu đãi của Chế độ, từ kinh phí nghiên cứu tới quyền hạn. Nắm Viện, ông Hiệu kêu gọi “các anh các chị hãy tự cứu mình”. Các công ty được thành lập, Viện khoa học Việt Nam nhanh chóng trở thành một nơi “nửa hàn lâm, nửa chợ trời”[theo TS Giang Minh Thế]. Hàng nghìn cán bộ tài năng trôi giạt khắp nơi. Nền tin học Việt Nam chuyển một cách dứt khoát sang nghề… buôn máy tính.
Dù GS Phan Đình Diệu là người viết đề cương thành lập viện Công nghệ thông tin theo mô hình mới và khi bỏ phiếu thăm dò, ông nhận được tín nhiệm của đa số tuyệt đối, GS Nguyễn Văn Hiệu vẫn chọn một người có số phiếu thấp hơn vì lý do “biết làm kinh tế”. GS Phan Đình Diệu tuyên bố từ chức Viện phó Viện Khoa học Việt Nam và ra khỏi biên chế, những chuyên gia trẻ hết lòng vì khoa học như Nguyễn Chí Công, Vũ Duy Mẫn, Lê Hải Khôi, Giang Công Thế… bắt đầu phiêu bạt.
Cho dù vậy, theo GS Chu Hảo - thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ thời kỳ internet được đưa vào VN - “GS Phan Đình Diệu vẫn là linh hồn của các chính sách phát triển công nghệ thông tin của nước ta”. Ông là Chủ tịch hội Tin học và là Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia phát triển Công nghệ Thông tin cho tới năm 1998.
Nếu như, GS Nguyễn Văn Hiệu nổi tiếng là một người biết sử dụng khoa học để làm chính trị và leo lên tới các đỉnh cao danh vọng thì GS Phan Đình Diệu lại là một con người mà ngay cả trong chính trị cũng chỉ tham gia với tinh thần khoa học.
Theo ông Trần Việt Phương - thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng - từ đầu thập niên 1960s, khi được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi, GS Phan Đình Diệu đã cho rằng, hệ thống kinh tế Xô Viết sẽ sụp đổ nếu tiếp tục vận hành như thế này[Hy vọng là Trung tâm Lưu trữ quốc gia vẫn còn giữ được ý kiến này của GS Phan Đình Diệu].
Rất có thể, quyết định không bổ nhiệm GS Phan Đình Diệu vào năm 1993 của ông Hiệu còn có “lý do chính trị”. Từ năm 1989, GS Phan Đình Diệu có nhiều phát biểu về “đa nguyên” và đặc biệt là các ý kiến thẳng thắn của ông góp ý cho Hiến pháp 1992.
Tháng 10-1988, sau khi giải quyết xong vấn đề “đa đảng”[giải tán hai đảng Dân chủ và Xã hội], Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu “chống đa nguyên” nhắm vào ông Trần Xuân Bách. Tháng 3-1989, Hội nghị Trung ương 6 khẳng định “Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”. Ngay sau đó trên báo Đảng, cả Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân lẫn “nhà nghiên cứu” Trần Bạch Đằng đều có bài, trên tinh thần “Mác Xít”, nhấn mạnh rằng, “Nếu hiểu đa nguyên theo nghĩa triết học thì từ lâu đã bị phê phán là sai lầm. Chúng ta không chấp nhận”.
Ngày 15-8-1989, GS Phan Đình Diệu có bài trên Sài Gòn Giải Phóng, đáp trả các luận điệu trên đây. Ông cho rằng, muốn “tìm đường đi cho đất nước trong thế giới hiện đại” thì phải “vận dụng trí tuệ của thời đại” từ “nhiều nguồn tri thức”. Theo ông, “Những gì xảy ra trong thế kỷ hai mươi là điều không thể hình dung đối với những bộ óc, dù là vĩ đại, của giữa thế kỷ mười chín”.
Sau khi đọc bài của Giáo sư Phan Đình Diệu, từ Hà Nội, Bí thư Trần Xuân Bách gửi cho TBT Sài Gòn Giải Phóng Tô Hoà một tấm danh thiếp, mặt sau ghi: “Chuyển giùm anh Phan Đình Diệu, tôi ca ngợi bài này”. Đây là bài báo cuối cùng mà Tô Hoà cho đăng với tư cách tổng biên tập Sài Gòn Giải Phóng. Ngày 28-3-1990, Trung ương cách chức ông Trần Xuân Bách.
Hai năm sau, ngày 12-3-1992, trong một phiên họp góp ý cho Hiến pháp 1992, GS Phan Đình Diệu đã có một phát biểu rất gây tiếng vang ở Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Ông đề nghị “tạm gác lại” việc đưa vào Hiến pháp các thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx - Lenin”. Ông đề nghị phải dũng cảm để thấy rằng, “mô hình CNXH, cũng như Marx - Lenin không còn đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay”. Giai đoạn xây dựng một “tổ quốc Việt Nam trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp và tự cường”.
Theo GS Phan Đình Diệu thì Việt Nam dứt khoát phải có “nhà nước pháp quyền”, chứ không thể tiếp tục “chuyên chính vô sản” hay “pháp quyền nửa vời”. Đặc biệt, ý kiến của ông về Mặt trận và các đoàn thể cho tới ngày nay vẫn còn rất thiết thực. Ông đề nghị, Hiến pháp chỉ cần coi lập hội là quyền tự do của người dân; từ bỏ việc nhà nước hoá các đoàn thể. Ông kêu gọi các đoàn thể thay vì dựa dẫm vào nhà nước phải lấy quần chúng làm gốc rễ, các cơ quan đảng, đoàn thể không ăn lương từ ngân sách.
GS Phan Đình Diệu không sử dụng tài năng và danh tiếng của mình để mưu cầu bổng lộc hay địa vị. Những năm sau 1975, trong những ngày đói kém, từ Paris trở về, hành lý của ông vẫn chỉ có sách và các “bản mạch” dùng cho sản xuất máy tính. Khi phải xuất hiện trên các diễn đàn thì, cho dù ở giai đoạn nào, ý kiến của ông vẫn là ý kiến của một con người yêu nước, khí phách và trí tuệ.  
                                           
                                 GIÁO SƯ PHAN ĐÌNH DIỆU GÓP Ý VỀ HIẾN PHÁP
Tại một cuộc họp với các nhà trí thức nghe góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp vào khoảng năm 1999-2000 (sửa đổi năm 2001) do Ủy viên Thường vụ thường trực Bộ Chính trị Phạm Thế Duyệt chủ trì, giáo sư Phan Đình Diệu có một số góp ý liên quan đến Điều 4 và điều khoản về các quyền tự do dân chủ của công dân. Lúc đó tôi làm việc ở tòa soạn Báo Thanh Niên tại Hà Nội, có viết một bài tường thuật về ý kiến của giáo sư gửi vào tòa soạn, nhưng nhắc đi nhắc lại là để xem cho biết chứ không được đăng. Bài viết đã lâu tôi không còn nhớ nguyên văn, chỉ nhớ một số nội dung chính như thế này :
Về điều 4 Hiến pháp, Giáo sư Phan Đình Diệu nói rằng, Hiến pháp năm 1946 cũng như Hiến pháp năm 1959 không có nội dung như điều 4, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ vai trò lãnh đạo xã hội trong thực tế. Hiến pháp Liên Xô mãi đến năm 1977 mới có nội dung này và chính điều này khiến cho Đảng Cộng sản Liên Xô suy yếu. Giáo sư Diệu nhắc lại tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng : Đảng lãnh đạo bằng chủ trương đường lối, bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên, bằng sự thuyết phuc chứ không bằng luật lệ, rằng chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “khi nào nhân dân thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng trong thực tế thì Đảng mới giữ được vai trò lãnh đạo”. Chính vì vậy mà khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tại thế, Hiến pháp Việt Nam không có nội dung như điều 4. Giáo sư đề nghị, bỏ điều 4 là sự khôi phục tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng, làm như vậy không những không làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam yếu đi mà ngược lại sẽ làm cho Đảng mạnh lên, có uy tín hơn.
Về các quyền tự do dân chủ, Giáo sư Phan Đình Diệu lưu ý, Hiến pháp năm 1946 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do biểu tình… và các quyền tự do khác. Hiến pháp năm 1959 còn tiến bộ hơn khi ghi thêm câu “Nhà nước bảo đảm thực hiện các quyền tự do đó”. Hiến pháp hiện hành cũng ghi các quyền tự do này nhưng lại có bước thụt lùi khi ghi thêm “Các quyền tự do đó được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật”. Giáo sư Diệu cho rằng, Hiến pháp hiện hành mở ra cho công dân có các quyền tự do, nhưng lập tức tạo điều kiện cho luật pháp triệt tiêu các quyền tự do đó.
Tóm lại, với những lý do nói trên, giáo sư Diệu đề nghị khôi phục lại tinh thần của Hiến pháp Việt nam năm 1946, là bản Hiến pháp tiến bộ không kém gì các bản Hiến pháp tiến bộ khác trên thế giới. Đó cũng là sự trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong lập hiến.
Tôi vẫn còn nhớ, ông Phạm Thế Duyệt đã ghi nhận những ý kiến mà ông cho rằng đó là “những góp ý có trách nhiệm” của giáo sư Phan Đình Diệu.  

HOÀNG HẢI VÂN   https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1805211516204567&set=a.1464332960292426.1073741828.100001472083411&type=3 
       Bài thơ "Mừng Thầy" của GS Phan Đình Diệu
Năm 1982, nhân dịp GS.NGND Nguyễn Thúc Hào lên tuổi bảy mươi, PGS.TS Toán học Văn Như Cương đã làm một bài thơ mừng thọ tặng Thầy Nguyễn Thúc Hào:


Kính tặng Thầy


Trăm năm tính mãi cuộc vuông tròn*
Để lại danh gì với nước non?
Chẳng thiết mưu danh cùng kiếm lợi
Không cần trát phấn với bôi son
Xưa đà ngang dọc ngôi trường lớn
Nay vẫn tung hoành mảnh đất con
Còn sống còn xem thời với thế
Rồi đây ai tính cuộc vuông tròn.

(*Thầy Nguyễn Thúc Hào là giáo sư hình học chuyên "tính cuộc vuông tròn")
GS Phan Đình Diệu đã làm bài thơ hoạ lại để tặng thầy Nguyễn Thúc Hào:

Mừng Thầy

Một tấm gương trong giữ vẹn tròn
Sá bao công lội suối trèo non
Tay dù trắng, đẹp đời trong trắng
Lòng vẫn son, bền chí sắt son
Từng trải nắng mưa, lo việc lớn
Giờ vui mây nước, mảnh tình con
Đời còn sương bụi bao mờ tỏ
Xin mãi long lanh ánh nguyệt tròn
Theo gia đình và các học trò thì đây là bài thơ hay nhất viết về Thầy Nguyễn Thúc Hào.
Thầy Nguyễn Thúc Hào cũng cảm kích với tấm lòng của các học trò và cũng đã hoạ lại:
Hoạ bài thơ của anh Văn Như Cương

Ngậm ngùi tuổi đã bảy mươi tròn
Trả được bao nhiêu, nợ nước non?
Tính toán, không từ nghề bạc phấn
Trồng người, chẳng đoái nghiệp vàng son.
Dù chưa cống hiến gì to tát
Cũng có góp phần chút cỏn con
Thầy cũ, trò xưa mừng gặp mặt
Ấm lòng đón tuổi bảy mươi tròn.
                                              Ngày 10/10/1982

                                 VÀI KỶ NIỆM VỀ GS PHAN ĐÌNH DIỆU
                                      Trần Văn Nhung (13/5/2018)
FB Phan Dương Hiệu, ngày 27/6/2017, thông báo đã mua được trên trang sách của Hội Toán học Mỹ cuốn sách in công trình khoa học của GS Phan Đình Diệu, 228 trang: "Some Questions in Constructive Functional Analysis", được xuất bản trong "Proceedings of the Steklov Institute of Mathematics", 1974, ISBN: 978-0-8218-3014-7.
Khi còn là sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ của Khoa Toán-Cơ-Tin học, ĐH Tổng hợp HN, tôi đã nghe tin về cuốn sách này và sau đó được nhì thấy bản tiếng Nga trong Thư viện Khoa và Trường. Tôi không hiểu gì mấy về nội dung cuốn sách nhưng, cũng như nhiều người khác, tôi rất trân trọng và khâm phục một thành tựu khoa học ở đỉnh cao.
Ngay lúc đó tôi cũng được biết GS Phan Đình Diệu là nhà toán học Việt Nam đầu tiên ở Liên Xô (cũ) mà luận án TS(KH) được đăng thành một tuyển tập riêng (228 trang) của Viện Toán học mang tên V. A. Steklov. Điều mà tôi láng máng hiểu được là công trình này của GS Phan Đình Diệu là những kết quả hệ thống, mới mẻ và rất quan trọng về toán học kiến thiết.
2. GS.TSKH. Phan Đình Diệu đã có bài viết rất hay trên Tạp chí "Toán học và Tuổi trẻ" (số 56, tháng 10-11/1970) giới thiệu về Bài toán thứ 10 do David Hilbert đề xuất năm 1900 tại Paris. Sau một quá trình 70 năm "chạy tiếp sức" của nhiều nhà toán học tài năng, người hoàn tất chặng đường cuối cùng năm 1970 là nhà toán học Nga 23 tuổi Iu. V. Matchiasevich (1974-), sinh viên của ĐHTH Saint Petersburg (CHLB Nga).
Bài toán được phát biểu như sau: "Hãy chỉ ra một phương pháp mà nhờ nó, sau một số hữu hạn các phép toán có thể khẳng định rằng một phương trình Diophantine là có nghiệm nguyên hay không". Phương trình Diophantine là phương trình có dạng P(x, y,..., z) = 0 trong đó P(x, y,..., z) là một đa thức với hệ số nguyên của các ẩn x, y, ..., z và khi giải người ta chỉ tìm các nghiệm nguyên hoặc nghiệm nguyên không âm của nó. (Như thế phương trình Fermat chỉ là một phương trình Diophantine đặc biệt). Tiếc thay, câu trả lời cho bài toán Hilbert số 10 lại ở dạng phủ định: Không tồn tại phương pháp chung để với mọi phương trình Diophantine cho trước, có thể khẳng định được rằng nó có nghiệm nguyên hay không.
3. Khi trân trọng công trình khoa học xuất sắc của người Bố, tôi cũng rất trân trọng tình cảm đối với Bố và đối với khoa học của những người con, GS Phan Dương Hiệu và PGS Phan Thị Hà Dương. Tôi đặc biệt quý trọng những người con, người cháu, những công dân biết trân trọng, sưu tập, gìn giữ và phát huy những di sản văn hóa, khoa học, nghệ thuật, ..., do cha ông, dân tộc mình để lại. Đấy là những người con, người cháu, những công dân hiếu nghĩa và có văn hóa cao.
4. Hai đồng nghiệp và tôi đã dịch cuốn sách của A. D. Aczel từ tiếng Anh ra tiếng Việt "Câu chuyện hấp dẫn về Bài toán Fermat", NXBGDVN, Hà Nội-2000 (178 trang, đến nay đã được tái bản 6 lần). GS Phan Đình Diệu là một trong những người đầu tiên tôi gửi tặng cuốn sách này. GS nói với tôi: "Cám ơn Nhung đã tặng mình cuốn sách về Định lý lớn Fermat! Khi cuốn sách vừa đến tay, mình đã đọc một mạch chừng 2-3 tiếng đồng hồ liên tục, từ trang đầu đến trang cuối. Cuốn sách hay quá!"