Thi cử bậc Phổ thông tại
miền Nam ngày xưa
Bài
viết của : Gordon Thúy
Nữ sinh trung học trước năm 1975
Sang xứ người đã vài thập kỷ, kỷ niệm thời
học trò ngày càng lùi dần vào quá khứ. Bất chợt hôm nay có người nhắc lúc này
đang là mùa thi tốt nghiệp phổ thông bên nhà, bỗng bồi hồi nhớ lại ngày xưa…
Trước 1975, chương trình giáo dục phổ thông
tại miền Nam gồm 12 lớp, chia ra hai bậc: tiểu học và trung học. Bậc tiểu học
từ lớp 1 đến lớp 5 (cấp 1 ngày nay). Bậc trung học từ lớp 6 đến lớp 12, lại
chia ra làm 2 bậc: trung học đệ nhất cấp (cấp 2) gồm lớp 6, 7, 8, 9; trung học
đệ nhị cấp (cấp 3) từ lớp 10 đến lớp 12.
Đó là hệ thống giáo dục do Pháp thiết lập,
sau này bàn giao lại cho chính phủ VN và được Việt hóa, dùng tiếng Việt và sách
giáo khoa Việt để giảng dạy và thi cử (sau hội nghị giáo dục toàn quốc 1958)
Các
cấp bậc và các kỳ thi
Bằng tiểu học
Thời bố mẹ tôi còn đi học, thập niên 40,
cuối bậc tiểu học có kỳ thi tiểu học, thi đậu thì được cấp bằng tiểu học hay
thường gọi bằng tiếng Tây là Certificat (CEPCI – tức là Certificat d’Études
Primaire Complémentaire Indochinoise). Những người có Certificat đã có thể kiếm
được việc làm “chữ nghĩa” tại văn phòng lĩnh lương khá hậu vào thời ấy.
Sau này thì bằng tiểu học được bãi bỏ,
nhưng đến thời anh em tôi cắp sách đến trường vào thập niên 60 thì học sinh
hoàn tất bậc tiểu học phải qua một kỳ thi hóc búa hơn: thi tuyển vào các trường
trung học công lập. Những kỳ thi này được xem là khó vì số trường trung học
công lập do chính phủ lập ra và miễn học phí không đủ phục vụ cho dân số học
trò vào lúc đó, nên tỉ lệ đậu vào trường công chỉ độ 62%, riêng đối với những
trường “top” chỉ khoảng 10% trúng tuyển, cũng khắt khe như tỉ lệ học sinh Mỹ
ngày nay được tuyển vào các trường đại học Ivy League như Harvard, Princeton,
Yale, v.v.
Những học sinh không đậu vào trường công
phải ghi tên vào các trường tư, đóng học phí tốn kém và trình độ giảng dạy cũng
không bằng trường công: thành phần ưu tú đã vào trường công, trường tư nhét
nhiều học sinh vào ngồi cùng lớp để giảm chi phí tăng lợi nhuận, nhà trường
không kỷ luật gắt gao vì muốn giữ học sinh, v.v.
Học sinh không đậu vào lớp 6 trường công
thì vào lớp tiếp liên tại các trường tư hay ở nhà để luyện thêm, năm sau thi
tiếp, sau 3 kỳ không được thi nữa. Vì thế học sinh trường công có thể chênh
lệch nhau 2 tuổi. Tôi có một bạn ngày xưa học cùng lớp tiểu học, nhưng thi 3
lần mới đậu vào trường công, nên đến khi vào trường, lại thua tôi hai lớp.
Bằng trung học
Hết lớp 9 bậc trung học đệ nhất cấp có kỳ
thi trung học, đậu bằng trung học mới được lên trung học đệ nhị cấp. Bằng trung
học là thước đo trình độ để tiến thân trong việc làm cho những người trẻ vào
đời. Nữ giới có bằng trung học có thể làm thư ký văn phòng, thi vào sư
phạm cấp tốc dạy tiểu học, vào trường trung cấp y tế đào tạo y tá, v.v. Nam
giới nếu nhập ngũ thì được đào tạo thành hạ sĩ quan, còn có bằng tiểu học chỉ
đóng binh nhì.
Đến thời anh em tôi lên trung học vào thập
niên 60 kỳ thi trung học đệ nhất cấp đã bãi bỏ vào năm 1967.
Tú tài I, Tú Tài II
Lên đến trung học đệ nhị cấp thì học sinh
chọn ban chuyên môn: ban A chuyên về khoa học (sinh vật và lý hóa), ban B
chuyên về toán, lý, hóa, ban C chuyên về văn chương, triết học, ngoại ngữ. Các
môn chính học nhiều tiết hơn môn phụ, nhưng chương trình học ban nào cũng gồm
đủ cả các môn văn, triết, sử, địa, toán, lý hóa, sinh vật, công dân, sinh ngữ
1, sinh ngữ 2. Cuối năm lớp 11 thi Tú tài I, cuối năm lớp 12 thi Tú Tài II. Sau
này tú tài I bãi bỏ năm 1973.
Các kỳ thi Trrung học, Tú tài I và II đều
là kỳ thi quốc gia, được tổ chức toàn quốc, cùng ngày, cùng đề thi. Đề thi được
bộ khảo thí thuộc bộ Giáo dục chọn lựa, niêm phong mật và gửi xuống các ty giáo
dục, chỉ được bóc niêm trước giờ thi.
“Ban soạn đề thi bị cô lập ở Sài Gòn khoảng
một tuần để hoàn tất việc chọn đề rồi đem niêm phong cẩn thận. Đề thi cho mỗi
tỉnh được đựng trong một cái rương nhôm có hai ổ khóa và được giữ bảo mật cho
đến gần ngày thi, giao cho hội đồng giám thị của từng tỉnh để phân phát đề thi
cho mỗi trung tâm thi xuống tận mỗi phòng thi. Vì bảo mật nên việc di chuyển đề
thi có cảnh sát hộ tống.
Mỗi phòng thi có hai giám thị: một giáo sư
trung học và một giáo viên tiểu học. Ngoài ra là một giám thị hành lang để giữ
trong ngoài nghiêm ngặt không ai ra vào trong khi thi. Bài thi của thí sinh
phải có chữ ký của hai giám thị phòng thi để ngăn ngừa việc tráo bài thi. Việc
di chuyển bài thi khi thí sinh đã nộp vào cũng đòi hỏi sự cẩn mật như việc di
chuyển đề thi.”
Thể thức thi cử & chấm điểm
Học sinh đến thi tại các trung tâm thi cử
theo phiếu báo danh nhận được, không thi tại trường của mình, và không được các
thầy cô dạy mình trông thi. Học sinh chỉ mang bút và tẩy vào lớp, giấy thi và
giấy nháp do trung tâm khảo thí cấp để tránh chuyện làm “phao”.
Phiếu báo danh sắp thứ tự theo tên, chẳng
hạn như những tên An, Ân, Ẩn, Ánh, v.v. được xếp vào cùng phòng thi, tên Thanh,
Thêm, Thoa, Thu, Thúy, Thủy, v.v. vào cùng phòng. Mỗi tờ giấy thi có ô
vuông trên đầu trang để học sinh ghi tên tuổi, ngày sinh, số báo danh,
v.v. Phần này gọi là “phách” sẽ rọc đi cất riêng sau khi giám khảo ghi mã số
vào phần phách và phần bài thi bên dưới.
Giáo sư chấm bài không biết tên tuổi của người
viết bài, chỉ dựa thuần vào chất lượng bài thi để chấm điểm. Học sinh còn cho
biết những điều phải tránh như không được dùng mực đỏ, không được gạch dưới,
không được viết chữ in, tức là những điều khác thường, vì bài sẽ bị loại theo
nghi vấn bài được “làm dấu” để giám khảo nhận ra “gà nhà” mà chấm thiên vị.
Sau khi việc chấm bài hoàn tất thì hội đồng
thi sẽ mang phách ra ráp lại theo đúng mã số, từ đó mới biết tác giả của từng
bài và điểm thi của từng thí sinh, rồi lập bảng điểm và biết ai được “bảng vàng
đề tên”, ai phải thở dài ai oán “thi không ăn ớt thế mà cay”.
Kỳ
thi tú tài kéo dài ba ngày dài lê thê. Sáng ngày thứ nhất thi môn chính, vì là
ban C nên tôi thi môn văn sáng ngày thứ nhất, chiều thi môn phụ như sử, địa,
hay công dân, toán, lý, hoá, sinh ngữ phụ (Anh văn).
Sáng
ngày hai thi môn chính thứ hai: sinh ngữ chính Pháp văn, chiều thi môn phụ.
Ngày thứ ba thi các môn còn lại. Hình như ban A hay B có đến 3 môn chính (sinh,
lý, hoá hay toán, lý, hoá) nên ba môn này sẽ thi vào ba buổi sáng, chiều thi
các môn khác.
Môn
văn hay triết thường là bình luận một tác phẩm, một đề tài triết, viết dài độ
4-6 trang. Sinh ngữ chính của ban C được dạy 7 năm trung học, đòi hỏi viết một
bài luận văn tiếng Pháp (rédaction). Môn sinh ngữ phụ Anh văn đã học 3
năm lớp 10-12 đòi hỏi đọc một bài viết rồi trả lời các câu hỏi (reading
comprehension), làm một vài phép văn phạm, dịch một đoạn văn ngắn ra tiếng
Việt.
Các
môn phụ hệ số thấp như sử, địa, công dân, v.v. cũng phải thuộc làu làu từng
quyển sách dầy độ 150-250 trang. Vì thế bảo rằng các cô tú cậu tú có cả “bồ”
chữ nghĩa trong bụng cũng không ngoa.
Ngày
xưa sau khi vượt vũ môn thi viết còn phải vào thi vấn đáp, sau này kỳ thi vấn
đáp đã được bỏ năm 1968.
Các môn thi, cách chấm điểm, và xếp hạng
Điểm
thi các môn từ 0 đến 20, đạt trên trung bình từ 10 trở lên là đậu, dưới 10 là
rớt. Các thứ hạng thi đậu được xếp như sau:
10.00
– 11.99: thứ
12.00
– 13.99: bình thứ
14.00
– 15.99: bình
16.00
– 17.99: ưu
18.00
– 20.00: tối ưu
Tất
cả các môn học trong năm đều cho thi, không từ môn nào. Tuy nhiên, điểm các môn
được nhân theo hệ số (coefficient) tùy theo ban chuyên môn của mình. Ban A có
môn sinh vật hệ số 4, số điểm sẽ nhân lên 4 lần, môn lý hoá sẽ nhân 3, ngoại
ngữ nhân 2, các môn khác như sử, địa, công dân nhân 1. Ban B có số điểm toán sẽ
nhân 4 lần, điểm lý hóa nhân 3, ban C thì môn văn hay triết sẽ nhân 4, ngoại
ngữ nhân 3, v.v., tức là môn chính của mình phải xuất sắc thì mới đậu cao.
Thí
dụ: nếu một học sinh ban B (toán) được 20 điểm môn công dân, hệ số 1, mà môn
toán hệ số 4 chỉ có 2 điểm, thì tổng số điểm sẽ là 20×1 + 2×4 = 28, chia cho 5
hệ số, trung bình chỉ có 5.60: RỚT!
Ngược
lại, nếu công dân có 2 điểm mà toán được 18 điểm, thì tổng số điểm là 2×1 +
18×4 = 74, trung bình gần 15 điểm: đậu bình!
Những
ban khoa học và toán thường có nhiều thí sinh xuất sắc hơn ban văn chương sinh
ngữ, vì giải toán đúng 100% có thể đạt điểm tối đa là 20, trong khi viết bài
bình luận hay vẫn khó mà đạt điểm 20 được.
Kết quả thi cử
Những
kỳ thi tú tài là một thử thách lớn và là cơn ác mộng trầm kha đối với giới học
sinh thời đó. Có một bài hát tả oán như sau: “Thi ơi là thi, sinh mi làm chi!”
Cả năm học hành kết quả khá, mà đến ngày thi lỡ bị “tào tháo đuổi” hay hỏng xe
không đến được phòng thi là kể như sự nghiệp tan tành, không có mảnh bằng lận
lưng là đời tàn trong ngõ hẹp.
Theo
tôi, triết lý giáo dục của Pháp chủ định dùng kỳ thi để tuyển lựa ra thành phần
ưu tú (élite) và loại bỏ thành phần “không xứng đáng”. Miền Nam theo nề nếp đó.
Khỏi nói cũng biết học sinh thi rớt như rạ. Trung bình tú tài I chỉ đậu độ 30%,
còn tú tài II, vì đã vượt vũ môn lên từ 30% của tú I, nên có sĩ số đậu khoảng
70%.Thi cử mà chỉ đậu có 30% thì đúng là thi loại bỏ chứ không phải là thi kiểm
tra trình độ nữa rồi. Nhà thơ Nguyễn tất Nhiên đã có bài thơ được Phạm Duy phổ
nhạc: “Thi hỏng tú tài ta đợi ngày đi (vào quân trường), đau lòng ta muốn
khóc”.
Có
những học sinh uống thuốc chống ngủ để gạo bài thâu đêm, đế nỗi bị lậm thuốc
sinh ra điên loạn. Có những học sinh thi rớt bị gia đình mắng mỏ, hay tự thất
vọng đã uống thuốc độc kết liễu đời mình, năm nào báo cũng đăng. Có người thi 7
năm liền mới bằng tú tài! Sau này để “cứu giúp” học sinh thi hỏng, bộ Giáo dục
cho thi tú tài II hằng năm hai lần, lần đầu vào đầu hè, lần sau cuối hè, để mọi
người có cơ hội “thua keo này ta bày keo khác!”.
Bằng
tú tài I đánh dấu một thành quả cao hơn bằng trung học, được vào một số học
viện như Học viện Cảnh sát Quốc gia, hoặc trường cao đẳng như Trường Cao đẳng
Công chánh, vào quân đội thì được huấn luyện thành sĩ quan, tuy nhiên không
được lên đại học. Chỉ có bằng tú tài II mới đánh dấu việc hoàn tất thành công
trung học đệ nhị cấp (cấp 3) và mở ra cổng trường đại học. Năm 1973 kỳ thi tú
tài I cũng được bãi bỏ (thank God, tạ ơn thượng đế!), chỉ còn giữ tú tài II.
Thi cử tại Mỹ & VN
Sau
này sang Mỹ sinh sống thấy con tôi học rất thoải mái, học trong lớp vừa xong
một chương là cho bài kiểm, bài thi liền để còn nhớ bài, không đợi đến cuối năm
khảo nguyên một cuốn sách mấy trăm trang như ở VN, (mà đúng ra thì VN khảo cả
chục cuốn sách vì chương trình nguyên năm có cả chục môn học).
Tại
trường Mỹ bài nào kiểm không khá là thầy cô cho “dạy lại, thi lại” ngay
(re-teach, re-test), đến giờ nghỉ trưa hay sau buổi học bảo trò đến thầy cô kèm
thêm cho thấu đáo. Đến hết bậc trung học bên Mỹ, nếu các môn bắt buộc trong
chương trình phổ thông đã hoàn tất và đủ điểm, là lập tức mũ áo vênh vang lên
lãnh bằng ngay, chẳng có tú I tú II gì sất! Từ đó tôi thấy sự khác biệt về thi
cử giữa hai hệ thống: ở Mỹ dạy cho đậu chứ không dạy cho rớt, ở VN không thật
xuất sắc là rớt như chơi.
Bonus vui: Một đứa đi thi, cả nhà mệt nghỉ!
Chưa
thấy một người làm quan, cả họ được nhờ, mà chỉ thấy cả nhà mệt nghỉ vì đứa con
đi thi. Bố lo tiền cho con đi học kèm thêm suốt năm, mẹ nấu chè nấu cháo ăn dặm
ban đêm cho có sức khoẻ, giữa khuya lại thức giấc quát con ơi đi ngủ thôi con
kẻo mai không dậy đi học nổi! Bà nội ngày rằm mồng một sì sụp khấn vái xin Trời
Phật phù hộ cho cháu nó thi đỗ phen này, bảng vàng đề tên, không hổ danh giòng
họ.
Ngày
đi thi bố chuẩn bị dầu nhớt cho chiếc xe từ mấy hôm trước để đưa sĩ tử đi đến
nơi về đến chốn. Mẹ nấu món ăn cho lành, bổ dưỡng, dễ tiêu, để không bị đau
bụng đau bão. Nhất định phải có chè đậu, phải nấu bằng đậu đỏ cho may mắn,
không nấu đậu đen, và tuyệt đối không cho ăn chuối hay trứng gà trứng vịt những
ngày này, nhất định không cho cơ hội trượt vỏ chuối hay lãnh trứng vịt!
Đến
ông anh trong nhà chẳng muốn quan tâm gì mà cũng bắt buộc trở nên “hữu dụng”:
“Ra đầu ngõ đứng đi con!”. Thế là ngày nào sĩ tử cũng ra ngõ gặp trai, hên cách
gì! Sau đó thì anh xách xe chạy theo đuôi bố, nhỡ xe bố trở chứng nằm ẹp là có
tài xế dự khuyết trám chân vào ngay! Không nhiêu khê như nhân vật trong Lều
Chõng của Ngô Tất Tố ngày xưa, nhưng toàn thể tiểu gia đình cũng không kém phần
sôi động vất vả.
Đại
gia đình trong hai họ nội ngoại cũng chăm chăm vào. Con bác A, con chú B, con
cô C, đều cũng đi thi năm nay đấy nhé. Chúng mày cố gắng hết sức mình nhé. Thi
đậu thì mới có tương lai nhé. Thi rớt là tàn đời con ạ. Giờ mà không cố gắng,
sau này có hối cũng muộn rồi con ạ! Bao cái “nhé! nhé! ạ! ạ!” ấy càng làm cho
thí sinh tăng thêm xì trét (stress), phen này mà lỡ thi rớt thì chỉ có chít!
Hàng
xóm cũng mặc tình “quan trên trông xuống, người ta trông vào”. Đến ngày toàn
quốc ứng thí mà thấy cô ả áo dài tươm tất, mặt mày tái nhợt, lủi thủi theo xe
bố bước ra đầu ngõ là ai cũng nhận biết ngay cái mặt “tội đồ đi thi” đây rồi,
chẳng dấu vào đâu được. Các bác hàng xóm, các anh chị lớn, các em bé,
v.v. đều mỉm cười thông cảm, ngấm ngầm gửi lời chúc thiện, làm mức độ xì
trét lại tăng lên vụt vụt.
Chín
tháng cặm cụi gạo bài, ba ngày căng thẳng loay hoay, gặm bút, viết viết, xóa
xóa, đến khi khổ nạn qua rồi thì thí sinh trở nên xẹp lép như bong bóng xì hơi,
ỉu xìu như chiếc bánh bao chiều, tả tơi như chiếc mền rách!
Kết
quả rồi cũng được niêm yết, đứa đậu, người rớt. Học sinh trường công thì kết
quả đậu rất cao. Tỉ lệ đậu toàn quốc chỉ độ 70% cho tú II, nhưng trong trường
“top” của tôi, lớp 50 học sinh chỉ có một bạn rớt, còn lớp bên cạnh 100% đậu.
Trường
của tôi là trường top của nữ sinh miền Nam và có một truyền thống rất tốt đẹp
và rất… hậu hỉ. Mỗi học sinh đậu bình được thưởng một bông mai bằng vàng 18
karat, nho nhỏ xinh xinh, biểu tượng của trường, đường kính độ 1.8cm (nửa
chỉ?), còn học sinh đậu ưu và tối ưu được thưởng một bông mai hơi lơn lớn xinh
xinh, đường kính độ 2cm. Thời đó vàng rẻ, và hội phu huynh tài trợ. Năm lớp
chúng tôi lãnh thưởng hoa mai vàng có tổng thống và bà Nguyễn văn Thiệu đến
trường dự lễ và đọc diễn văn khen thưởng. Sau này các chị lớn kể với thầy cô
rằng nhờ chiếc bông mai vàng của trường tặng thưởng mà các chị đã bán đi lấy
tiền thăm nuôi chồng học tập tại các trại cải tạo, hay trao cho chồng cầm đi
làm của hộ thân trên đường vượt biên.
Trong
hàng xóm hay trong họ hàng thì khác, phản ánh tình hình chung, có đậu có rớt,
độ 50/50. Tôi cứ nghĩ mà xót xa cho những bạn đã cố gắng hết sức mình mà vẫn ôm
hận. Bố mẹ lại được dịp hể hả so sánh con mình với con nhà khác. Tội nghiệp bố
cả đời vất vả chỉ mãn nguyện có bấy nhiêu, và chỉ được báo hiếu có bấy nhiêu,
rồi thì bố mất sớm khi con chưa thành tài, sau này mỗi lần lãnh lương rủng rỉnh
chẳng có dịp mua quà biếu bố cho bố vui.
Rồi
mùa mưa kéo qua mùa thi
Rồi
em cũng bỏ trường mà đi!
Đó
là hai câu thơ một bạn trong trường viết ra. Tú tài II là chặng đường cuối, kết
thúc tuổi học trò thơ ngây và đánh dấu tuổi vào đời. Ngày xưa bậc trung học kéo
dài 7 năm dưới cùng một mái trường, nên cuộc chia tay với thầy cô, bạn bè, lớp
học, sân trường, phấn trắng, bảng đen, v.v. không ít bịn rịn.
Rồi từ đó mỗi kẻ một nơi!
Sau
này gặp lại, bọn tôi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đi học, đi thi ngày xưa.
Kiến thức miệt mài nấu sử sôi kinh đã quên gần hết, nhưng điều không quên đi,
không mất đi, là cái đạo đức, cái nền nếp làm người mà thầy cô đã dạy dỗ uốn
nắn cho ngày xưa. Cách sống cho ra người ấy đã giúp cho học trò của thầy cô
ngày xưa vươn lên ở bất cứ mọi nơi, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi trở
ngại, chinh phục mọi môi trường mới, chinh phục lòng người, tạo dựng một chỗ
đứng trong đời cho mình và tìm cơ hội chăm lo lại cho người khác.
Chính
cái môn không hệ số, không thi cử này lại là cái vốn sống trong suốt cuộc đời.
Viện
đại học Đà lạt ngày xưa đã lấy tên là Đại học Thụ Nhân, trích từ câu nói của
Quản Trọng thời Xuân Thu, và có khắc câu ấy hai cột trụ hai bên cổng trường:
“Nhứt
niên chi kế mạc như thụ cốc, (vì lợi ích một năm hãy trồng lúa,
“Thập
niên chi kế mạc như thụ mộc (vì lợi ích mười năm hãy trồng cây,
“Chung
thân chi kế mạc như thụ nhân” (vì lợi ích cả đời hãy trồng người)
(có
nơi ghi: “Bách niên chi kế mạc như thụ nhân” (vì lợi ích trăm năm hãy trồng
người)
Chúng
tôi đồng ý với nhau chúng tôi là những sản phẩm nhà trường đã “trồng” được
trong những năm tháng dưới mái trường xưa, và đã không để nhà trường và thầy cô
phải hổ thẹn!
Trường Gia Long trước năm 1975
Chú thích thêm :
Năm 1945, gs Hoàng Xuân
Hãn tham gia Nội Các Trần Trong Kim với chức vụ Bộ Trưởng GD và Mỹ Thuật . Ông
triệu tập các trí thức Nam, Trung, Bắc không phân biệt lập trường Chính Trị,
Quốc Gia hay CS thành lập Chương Trình GD bằng chữ Quốc Ngữ tại trường Quốc Học
Huế trong thời gian kỹ lục. Các vị gs gồm có : Phạm Đình Ái (Lý Hóa), Nguyễn
Thúc Hào (Toán), Nguyễn Dương Đôn (Toán), Hồ Hữu Tường (Toán), Nguyễn Huy Bảo,
LM Nguyễn văn Hiền (Triết), Tạ Quang Bữu (Vật Lý), Ưng Quả (Pháp Văn), Hà Thúc
Chính (Anh văn), Ngô Đình Nhu (Sử Địa), Hoài Thanh, Đào Duy Anh (Việt Văn), Lê
văn Căn, Nguyễn Hữu Quán (Vạn vật) v.vv
Vì hầu hết các vị gs đã
từng học bên Pháp nên chương trình theo rất sát chương trình Trung Học của Pháp
. Trong Giáo giới người ta gọi chương trình này là chương trình Hoàng Xuân Hãn
(Theo quyển Khoa Cử và
Giáo Dục Viet Nam, gs Nguyễn Q Thắng ).
Hôm các gs hoàn tất soạn
thảo , gs Hãn dự định tổ chức một bửa tiệc cám ơn các gs tại trường QH, thì lại
đúng ngay ngày các ông Trần Huy Liệu, Huy Cận … ( Tướng Trần Độ khi đó là SQ
Đại Đội Trưởng theo hộ tống ) vào Huế ép Bảo Đại từ chức, trao Ấn Kiếm). Phía
Việt Minh đến hỏi chương trình đâu, mọi người chỉ gs Phạm Đình Ái đang giữ
trong cập tạp. Phái đoàn VM liền dẩn gs Ái về Hà Nội rồi sau đó đem luôn ra
chiến khu. Đến năm 1952, gs PDA mới trốn về được. Về sau, gs PDA dạy Vật Lý
trường Chu văn An, Sài Gòn
Chương trình này được đem
áp dụng tại miền Bắc và Trung, riêng miền Nam đến giữa thập niên 50 mới đem áp
dụng vì Pháp trở lại miền Nam khi đó .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét